Chiến thắng Ðường 9 - Khe Sanh xuân hè 1968 của quân và dân ta đã tạc vào lịch sử hiện đại một nét son chói ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Khe Sanh, một vị trí có tầm quan trọng chiến lược ở miền núi phía tây tỉnh Quảng Trị, nằm trên cao nguyên mỗi bề gần mười km. Ðây là khu vực phía tây phòng tuyến Mc Namara mà địch phòng thủ rất mạnh nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền bắc cho tiền tuyến lớn miền nam, là bình phong chắn giữ cho khu vực phía đông Ðường 9, bảo vệ vùng đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Quảng Trị.
Trong nhìn nhận của các tướng lĩnh Mỹ, Khe Sanh là căn cứ tuần tra để ngăn chặn quân chủ lực miền bắc thâm nhập từ Lào sang theo trục đường 9; là bàn đạp để quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn triển khai các hoạt động đánh phá căn cứ của ta trên đất Lào; là sân bay phục vụ việc trinh sát đường không tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn; là cái mỏ neo ở phía tây cho toàn bộ hệ thống phòng thủ phía nam khu phi quân sự; và bàn đạp cho các cuộc hành quân trên bộ để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh.
Theo Westmorland, Tư lệnh bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại miền nam Việt Nam, bỏ Khe Sanh tức là bỏ mất tất cả lợi thế đó, đồng thời chấp nhận cái tất yếu là đưa chiến tranh vào vùng ven biển thuộc tỉnh Quảng Trị. Vì tầm quan trọng đó, trên đường 9, từ Cửa Việt đến Lao Bảo, bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) tập trung 45 nghìn quân, trong đó có 28 nghìn quân Mỹ; riêng tại căn cứ Khe Sanh, vào những tháng cuối năm 1967 đầu năm 1968, số quân đồn trú Mỹ lên tới hơn 6.000 tên.
Về phía ta, ngay từ giữa năm 1966, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, trên cơ sở đánh giá tầm quan trọng của khu vực Ðường 9 - Khe Sanh, đã quyết định thành lập Quân khu Trị Thiên, mở mặt trận Ðường 9 - bắc Quảng Trị. Từ đây, mặt trận này đã thu hút, ghìm chân một bộ phận quan trọng binh lực của đối phương.
Trong kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, một lần nữa, khu vực Ðường 9 - Khe Sanh được xác định là hướng tiến công và là đòn chính của bộ đội chủ lực nhằm "nghi binh, lừa địch", kéo ra và ghìm chặt một bộ phận lực lượng cơ động chiến lược của quân Mỹ, tạo điều kiện cho quân và dân ta chuẩn bị và tiến công đồng loạt vào các đô thị trên khắp miền nam.
Chiến dịch tiến công Ðường 9 - Khe Sanh là nhằm hiện thực hóa chủ trương chiến lược táo bạo đó. Ta tập trung vào chiến dịch này bốn sư đoàn bộ binh, một đoàn và năm đại đội đặc công, năm trung đoàn pháo binh, ba trung đoàn cao xạ, một trung đoàn và hai tiểu đoàn công binh, bốn đại đội xe tăng, một đội súng phun lửa cùng các lực lượng bảo đảm khác. Ðây là lần đầu tiên ta tổ chức một chiến dịch tập trung quy mô lớn trên chiến trường miền nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ðêm 20-1-1968, quân ta nổ súng tiến công quận lỵ Hướng Hóa. Những ngày tiếp sau, ta tiến công Huội San, Chi khu Cam Lộ, đánh chiếm Làng Vây,... dồn ép địch ở khu vực Tà Cơn, chặn đánh quyết liệt lực lượng ứng cứu của địch...
Lúc này, nước Mỹ đang bước vào năm vận động tranh cử tổng thống nhiệm kỳ mới. Ðó là thời điểm rất nhạy cảm trong đời sống chính trị của nước Mỹ. Cho nên, bất cứ sự đảo lộn nào trên chiến trường Việt Nam đều gây chấn động mạnh tới tình hình nước Mỹ. Vì thế, chiến dịch Ðường 9 - Khe Sanh vừa nổ ra đã ngay lập tức thu hút tâm trí của giới lãnh đạo Washington.
Michael Marlia, một tác giả Mỹ, sau này bình luận rằng, đạn pháo của quân chủ lực miền bắc vừa dội xuống Khe Sanh đã "rơi ngay vào thủ đô Washington".
Giới lãnh đạo Mỹ khi đó nhận định: Khe Sanh là một "Ðiện Biên Phủ" trong ý đồ của các cơ quan chỉ đạo chiến lược Việt Nam. Vì thế, Tổng thống Johnson chỉ thị cho tướng Taylor lập phòng "tình hình đặc biệt" tại Nhà Trắng và đích thân theo dõi diễn biến tình hình Khe Sanh từng giờ. Ông ta lệnh cho tham mưu trưởng liên quân Mỹ phải cam kết giữ vững Khe Sanh bằng mọi giá, lệnh cho tướng Westmorland hằng ngày phải gửi về Washington báo cáo chi tiết về tình hình chiến sự Khe Sanh.
Cũng có ý kiến đề xuất việc sử dụng vũ khí nguyên tử nhằm giải vây quân Mỹ ở Khe Sanh. Toan tính này của giới cầm quyền Mỹ ngày ấy, bị "ém nhẹm" và phải gần 40 năm sau mới được Chính phủ Mỹ tiết lộ.
Vì tình hình căng thẳng ở Khe Sanh, đêm đêm, Westmorland phải ngủ lại trung tâm hành quân trong Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn. Ông ta và các cộng sự trong bộ chỉ huy quân sự Mỹ nhận định, Khe Sanh là hướng tiến công chính của đối phương trong đông - xuân 1968. Ám ảnh bởi Ðiện Biên Phủ năm 1954 từng chôn vùi uy danh quân đội Pháp, Westmorland cho mời nhà sử học quân sự công tác tại MACV, đại tá R.Agger, thuyết trình về nguyên do đưa đến sự bại trận của quân đồn trú Pháp ở Ðiện Biên Phủ. Theo nhà sử học này, tại Ðiện Biên Phủ cũng như nhiều nơi khác trong lịch sử chiến tranh thế giới, sở dĩ quân đồn trú thất bại là bởi bị đối phương bao vây và bị tước mất quyền chủ động. Kết luận đó, theo hồi ký Westmorland, khiến ông và cả bộ chỉ huy vô cùng "choáng váng".
Trong lo lắng, Westmorland quyết định thành lập Sở chỉ huy tiền phương của bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại vùng 1 chiến thuật nhằm kiểm soát, chỉ huy toàn bộ lực lượng quân Mỹ và quân đội Sài Gòn ở mặt trận phía bắc, và nhằm đối phó kịp thời với tình hình chiến sự ở Khe Sanh. Toàn bộ lực lượng này, vào cuối tháng 1-1968, lên tới 40% số tiểu đoàn bộ binh và thiết giáp mà MACV hiện có trong tay.
Trong khi tâm trí và lực lượng quân sự Mỹ dồn vào mặt trận Khe Sanh thì cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta nổ ra mà hướng chính là nhằm vào các đô thị trên toàn miền nam. Ðòn tiến công táo bạo, bất ngờ và mãnh liệt này đã đặt một bộ phận quan trọng quân Mỹ bấy giờ đang tập trung ở khu vực rừng núi Khe Sanh, vào thế "cá voi mắc cạn".
Phối hợp với đòn tiến công vào các đô thị, tại Khe Sanh, ta tăng thêm lực lượng đẩy mạnh các hoạt động tiến công, vây lấn. Tại đây, chiến sự diễn ra ngày càng ác liệt. Westmorland tung cả vào đây sư đoàn kỵ binh không vận số 1, sư đoàn thủy quân lục chiến số 3 và nhiều đơn vị thiện chiến khác của quân Mỹ. Ðồng thời, không quân, pháo binh được phía Mỹ huy động tối đa nhằm chi viện hỏa lực ồ ạt cho quân đồn trú và quân giải cứu. Chỉ tính riêng từ ngày 20-1 đến ngày 31-3-1968, Mỹ đã sử dụng đến 24.000 lần chiếc máy bay chiến thuật, 2.700 lần chiếc "pháo đài bay B52", dội xuống khu vực Khe Sanh 100.000 tấn bom; các trận địa pháo của quân Mỹ bắn tới 150.000 quả, tạo ra những trận bão lửa hòng đánh bật đối phương khỏi khu vực Khe Sanh.
Không nao núng ý chí, quyết tâm, những người lính "Bộ đội Cụ Hồ" mưu trí, dũng cảm đã kiên trì trụ bám trận địa, tiến công và đẩy lùi các đợt phản kích, chặn đánh quyết liệt lực lượng ứng cứu, làm thất bại các cuộc hành quân giải tỏa của sư đoàn kỵ binh không quân số 1 Mỹ và quân đội Sài Gòn, siết chặt vòng vây căn cứ Tà Cơn, dồn địch vào tình thế có thể bị tiêu diệt hoàn toàn...
Trước tình hình đó, tháng 6-1968, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải rút bỏ Khe Sanh nhằm bảo toàn lực lượng còn lại sau 177 ngày đêm bị đối phương vây hãm, tiến công và sau khi đã bị hao tổn 17.000 quân cùng hàng trăm máy bay, khiến cho tuyến phòng thủ Ðường 9 bị đập vỡ một khâu trọng yếu. "Việc rút lui khỏi Khe Sanh không đơn giản chỉ bỏ rơi một yếu điểm, mà còn là rời bỏ một ảo tưởng và một chính sách. Tất cả nỗ lực của Hoa Kỳ đã tan ra tro như những pháo đài xi-măng cốt sắt ở Khe Sanh" (Bình luận của Ðài BBC ngày 30-6-1968). Ðó thật sự là một thất bại nặng nề về quân sự và chính trị của Washington trong toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Chiến thắng Ðường 9 - Khe Sanh gắn chặt với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 và góp phần quan trọng buộc chính quyền Mỹ phải xuống thang, trút dần gánh nặng chiến tranh xuống vai chính quyền và quân đội Sài Gòn, ngừng ném bom miền bắc, ngồi vào đàm phán ở Pa-ri, khởi đầu một quá trình thất bại về chiến lược và quá trình đó là không thể đảo ngược. Chiến thắng Khe Sanh là kết quả của những nhân tố rất cơ bản tạo ra và nhân lên sức mạnh tổng hợp đánh bại những nỗ lực quân sự khổng lồ của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Ðó là nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, điều hành chiến tranh độc lập, sáng tạo của Ðảng ta; là hiệu lực thực tế của nền nghệ thuật quân sự hiện đại Việt Nam - một nền nghệ thuật quân sự phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông, lấy trí tuệ và bản lĩnh của con người Việt Nam để chiến thắng vũ khí và sức mạnh bạo tàn của kẻ xâm lược.
Ðó còn là ý chí, nghị lực sức mạnh của những người lính xung trận với niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng; là sự đùm bọc, chở che, giúp đỡ và tham gia tích cực của đồng bào các dân tộc miền tây Quảng Trị một lòng thủy chung với cách mạng, với Bác Hồ, đã chắt chiu dành dụm, đóng góp hàng trăm tấn gạo, hàng nghìn tấn sắn, hàng nghìn ngày công gùi lương tải đạn, cứu chữa thương binh...
40 năm đã trôi qua, kể từ khi chiến dịch Khe Sanh kết thúc, kỷ niệm sự kiện lịch sử này, chúng ta nghiêng mình tưởng nhớ bao anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì tự do, độc lập của Tổ quốc. Ðây cũng là dịp để chúng ta hôm nay thêm một lần chiêm nghiệm sâu sắc hơn những nhân tố đã tạo ra và nhân lên sức mạnh của lòng yêu nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Những nhân tố ấy, đến hôm nay, vẫn là những giá trị quyết định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nguồn: Nhân dân Điện tử